Icthyology - Lịch sử ban đầu của Ichthyology
Ichthyology là nhánh của động vật học dành cho nghiên cứu về cá. Công việc 'sinh vật học' có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "ikhthus", có nghĩa là cá và "logo", nghĩa là nghiên cứu. Trong lĩnh vực sinh vật học là cá xương (Osteichthyes), cá sụn (Chondrichthyes) và cá không xương (Agnatha).

Vào đầu năm 2010, ước tính có khoảng 31.500 loài cá đã được phát hiện và mô tả, nhiều hơn tổng số các loài động vật có xương sống khác (bao gồm động vật có vú, động vật lưỡng cư, bò sát và chim). Thật đáng ngạc nhiên, các nhà khoa học vẫn đang tìm kiếm và mô tả khoảng 250 loài cá mới mỗi năm!


LỊCH SỬ SỚM CỦA ICHTHYology
Ichthyologist và giáo sư Michael Barton nói rằng "các nhà ichthy đầu tiên là những thợ săn và người hái lượm đã học được cách kiếm được những con cá hữu ích nhất, nơi có được chúng trong sự phong phú, và vào những thời điểm chúng có thể có sẵn nhất".

1500 trước Công nguyên - 40 sau Công nguyên
Các tác phẩm của Judeo-Christian thời kỳ đầu phản ánh mối quan tâm đến ichthyology. Ví dụ, kashrut cấm ăn cá mà không có vảy hoặc phần phụ. Các nhà thần học và ichthy hiện đại suy đoán rằng sứ đồ Peter, "ngư dân", đã thu hoạch cùng loại cá ngày nay được bán trong ngành công nghiệp hiện đại dọc theo Biển hồ Galilee, hiện được gọi là Hồ Kinneret.

335 trước Công nguyên - 80 sau Công nguyên
Aristotle, được cho là người cung cấp phân loại cá sớm nhất, mô tả chính xác 117 loài cá Địa Trung Hải. Ông cũng ghi nhận sự khác biệt về giải phẫu và hành vi giữa cá và động vật có vú dưới biển. Theophrastus, một trong những học sinh của Aristotle, đã soạn một chuyên luận về cá lưỡng cư. Người La Mã cũng viết nhiều về cá. Pliny the Elder, một nhà tự nhiên học La Mã đáng chú ý, đã biên soạn các tác phẩm ichthyological của người Hy Lạp bản địa, bao gồm các đặc thù có thể kiểm chứng và mơ hồ như cưa và nàng tiên cá.

Phục hưng châu Âu

Ba học giả của thế kỷ mười sáu, Hippolyte Salviani, Pierre Belon và Guillaume Rondelet, được ghi nhận với quan niệm về ichthyology "hiện đại". Rondelet của De Piscibus Marinum được coi là công việc có ảnh hưởng nhất thời bấy giờ, xác định được 244 loài cá.

Thăm dò và thực dân của cái gọi là Thế giới mới đã góp phần làm tăng các nghiên cứu tự nhiên, bao gồm cả khoa học. Năm 1648, Saxon Georg Marcgrave đã viết Naturalis Brasilae, mô tả khoảng 100 loài cá bản địa ở bờ biển Brazil. Chỉ hai mươi năm sau, năm 1686, John Ray và Francis Willughby xuất bản Lịch sử Piscium, một bản thảo khoa học mô tả 420 loài cá, 178 trong số này mới được phát hiện.

Các Lịch sử Piscium khác với các công trình trước đây, vì nó đã sử dụng phương pháp phân loại hiện đại được phát triển bởi Linnaeus. Trên thực tế, một trong những đồng nghiệp của Linnaeus, Peter Artredi, được biết đến như là "cha đẻ của ichthyology" dựa trên những đóng góp của ông cho lĩnh vực này. Artedi không chỉ giúp Linnaeus hoàn thiện các nguyên tắc phân loại, ông còn nhận ra năm đơn hàng cá bổ sung. Ngoài ra, ông đã phát triển các phương pháp tiêu chuẩn hóa để thực hiện đếm và đo các đặc điểm giải phẫu vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay.

Artedi bị chết đuối, trớ trêu thay, ở tuổi 30, và Linnaeus sau đó đã xuất bản các bản thảo của Artedi như Ichthyologia, Opera Opera Omnia de Piscibus (1738). Trong tác phẩm này, Linnaeus đã sửa đổi các đơn đặt hàng cá được giới thiệu bởi Artedi, đặt tầm quan trọng ngày càng cao lên vây bụng. Cá thiếu phần phụ lục này được đặt trong Apodes thứ tự; cá có chứa vây bụng, ngực hoặc xương chậu được gọi là Bụng, Thoracici và Jugulares tương ứng.

Nhiều tác phẩm ichthyologic khác được xây dựng dựa trên tác phẩm của Artedi và Linnaeus. Một số nhà khoa học có liên quan bao gồm, Otto Fabricus (1744-1822), Petrus Forskål (1736-1763), Petrus Pallas (1741-1811), Antione Risso (1777-1845), Thomas Pennant (1726-1798), Wlmus G. Tilesius (1769-1857), Georg Wilhelm Steller (1709-1746).


HÓA HỌC HIỆN ĐẠI
Vào cuối thế kỷ thứ mười tám, Marcus Elieser Bloch của Berlin và Georges Cuvier của Paris đã cố gắng củng cố tất cả các kiến ​​thức hiện tại về ichthyology. Cuvier đã tóm tắt tất cả các thông tin có sẵn trong mình Lịch sử Naturelle des Poissons. Bản thảo này đã được xuất bản trong một bộ gồm 22 tập từ năm 1828 đến 1849 và chứa 4.514 loài cá. Một số 2.311 loài này là mới đối với khoa học. Loạt bài này vẫn là một trong những chuyên luận đầy tham vọng nhất về ichthyology của thế giới hiện đại.

Các nhà ichthy nổi tiếng khác của thời đại là Charles Lesueur, John James Audobon, Constantine Rafinesque, Louis Agassiz, Albert Gunther và David Starr Jordan.

Một sinh viên của Cuvier, Charles Alexandre Lesueur, đã thực hiện một bộ sưu tập cá sống trong vùng Great Lakes và Saint Lawrence River.John James Audubon và Constantine Samuel Rafinesque thường đi du lịch cùng nhau, và vào năm 1820 sáng tác Ichthyologia Ohiensis. Louis Agassiz của Thụy Sĩ được biết đến với nghiên cứu về cá và sinh vật nước ngọt và tiên phong của cổ sinh vật học. Albert Günther đã xuất bản Danh mục các loài cá của Bảo tàng Anh như một chuỗi từ năm 1859 đến 1870. Công trình của Gunther đã mô tả chi tiết hơn 6.800 loài cá và đề cập đến 1.700 loài khác. Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, David Starr Jordan - được xem là một trong những nhà ichthy có ảnh hưởng nhất trong thời hiện đại - đã viết hơn 650 bài báo và sách về chủ đề này.



KHUYẾN NGHỊ ĐỌC